Sự tích:
Con yêu râu xanh ở Việt Nam
Việt Thường
Bài 7
Tụi này được lựa chọn trên cơ sở “giai cấp” và “tính đảng (mafia)” và đào tạo theo kiểu “thủ công” nghĩa là học tắt và học nửa chương trình bậc phổ thông. Thí dụ: Nếu chúng được cho đi học về ngành xã hội thì chúng chỉ học tóm tắt kiến thức bậc phổ thông về văn, sử và địa lý, không học các môn toán, vật lý, hóa học, sinh vật. Còn nếu theo học về ngành khoa học tự nhiên thì ngược lại. Vả chăng, đứa nào đã được “đảng” chọn đi học là coi như đương nhiên phải đỗ. Thầy, cô giáo nào mà chấm thi để chúng trượt sẽ bị phê bình là “mất lập trường giai cấp”. Dưới chế độ mafia đỏ đây là một trọng tội! Thí dụ cụ thể: Hạ bá Nền nguyên là giao liên thời chống Pháp, vì có họ xa với Hoàng quốc Việt (tên thật là Hạ bá Cang) nên được cho đi học bổ túc công nông rồi vào học đại học tổng hợp văn ở Hà-nội. Suốt 3 năm học đại học, Hạ bá Nền chỉ làm có ba việc là: hoạt động hiệu đoàn của trường; là bí thư chi bộ đảng mafia đỏ của lớp; có thì giờ thì vào thư viện sưu tập thơ của các bút nô “ca ngợi” Hồ chí Minh (sau được in thành tập gọi là “Sáng tháng năm”). Vì thế khi thi tốt nghiệp để giấy trắng và giáo sư Hoàng như Mai đành phải đánh trượt. Hạ bá Nền làm đơn kiện giáo sư Hoàng như Mai gửi đảng đoàn mafia đỏ ở bộ đại học và trung học chuyên nghiệp. Kết quả: Giáo sư Hoàng như Mai bị khiển trách, phải xin lỗi Hạ bá Nền và bộ đại học và trung học chuyên nghiệp đã gửi “bằng tốt nghiệp đại học tổng hợp văn” cho Hạ bá Nền!!!
Các tổ chức trường lớp ăn ở, sinh hoạt, học tập lẫn lộn các thành phần nói trên là biện pháp của tập đoàn lãnh đạo mafia đỏ muốn thuần hóa ngay từ đầu tầng lớp “trí thức tương lai” của cái gọi là “chế độ xã hội chủ nghĩa” y hệt kiểu các cụ xưa thường nói rằng:
Dạy con từ thuở còn thơ
Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về.
Cho dù sẽ là “trí thức xã hội chủ nghĩa tương lai”, nhưng vì có cái gốc trí thức nên vẫn bị nghi kỵ. Bởi vì đường lối đào tạo của “quốc tế cộng sản” (tức mafia đỏ quốc tế) đối với trí thức của thuộc quốc (như Việt Nam dưới chế độ mafia Hồ chí Minh) là biến họ thành trí nô, hoàn toàn khác với cách đào tạo ở mẫu quốc (Nga-xô).
Về vật chất:
Được là sinh viên, phải là đoàn viên thanh niên cộng sản (cánh tay mặt của đảng mafia đỏ), là qua được một cửa ải. Tuy nhiên, loại trừ số gốc gác từ binh lính, công an, cán bộ ra, số xuất thân từ học sinh cấp 3 phổ thông chính quy vẫn còn bị chia loại thành con em họ hàng mafia đỏ gộc; con em “liệt sỹ”, thương binh; con em đảng viên mafia và con em những gia đình “quần chúng tốt” (nghĩa là gia đình không có ai là đảng viên mafia mà cũng không có ai là phản động hoặc đối tượng bị phân biệt đối xử) tất nhiên bản thân phải là đoàn viên thanh niên lao động, để quản lý, để đãi ngộ có chút phân biệt. Cụ thể là: con em của mafia đỏ trung, cao cấp, con em “liệt sỹ”, thương binh khi vào đại học được thỏa mãn ngành nghề, được cho thêm điểm và được hưởng học bỗng toàn phần. Thí dụ về điểm: giả sử muốn thi vào trường y khoa, điểm đậu là 40. Con em quan lại đỏ và con em thương binh, “liệt sỹ” chỉ cần 35 điểm là cho đậu. Cá biệt còn ít hơn cũng được đậu. Còn con em đảng viên mafia đỏ thường và “quần chúng tốt” bắt buộc phải đủ 40 điểm mới cho đậu. Cá biệt có khi đủ 40 điểm vẫn phải chuyển qua học ngành khác mà tiêu chuẩn điểm số ít hơn, như bách khoa hay tổng hợp chẳng hạn, để “nhường” chỗ cho con em quan lại đỏ trung, cao cấp hay con em liệt sỹ, thương binh vào học dù điểm thi của chúng có thể dưới cả điểm “ưu đãi” là 35 điểm. Tóm lại là, trong thực tế không phải người giỏi được vào đại học và không được quyền chọn ngành học, trừ phi đó là con em quan lại đỏ cao cấp.
ở tập thể tất nhiên cũng phải ăn tập thể. Những sinh viên được học bỗng cũng chia làm ba hạng: Loại được toàn phần học bỗng; loại nửa học bỗng và loại 1/3 học bỗng. Con em quan lại đỏ đương nhiên được hưởng học bỗng toàn phần, đủ đóng tiền ăn tháng và giấy, bút, mực. Khẩu phần ăn của sinh viên dưới chế độ mafia đỏ Hồ chí Minh là khẩu phần đói nhất. Thí dụ: trước 1975, ở phía Bắc Việt Nam, trong khi tiêu chuẩn ăn của bếp dành dành cho nhân viên của trường là 18 đồng/tháng, thì của sinh viên là 15đồng/tháng. Khẩu phần ăn của sinh viên “có vẻ” đồng đều nhau, nhưng thực tế khác biệt rất xa. Vì, trong khi sinh viên nghèo chỉ ngày hai bữa theo tiêu chuẩn 15đồng/tháng, nghĩa là hai lưng cơm độn, tý nước canh rau và vài cọng rau già chấm nước muối ớt. Cả tháng may ra mới được ăn một bữa có một mẫu thịt hoặc hai lát đậu phụ, vì tiêu chuẩn thực phẩm phân phối của sinh viên chỉ có 0kg150 thịt hoặc mỡ trong một tháng (có thể bị thay thế bằng 0kg300 đậu phụ) và 0kg100 đường màu cánh gián (đường Cuba sản xuất) hoặc thay thế bằng mật mía để nấu chè khoai lang hoặc sắn lấy từ chất độn trong khẩu phần lương thực mà dân thường là 13kg500 (cũng bị trừ 3kg). Trong khi đó, con cái quan lại đỏ cao cấp được gia đình cho thêm lương khô (hàng Trung cộng viện trợ cho binh lính mafia đỏ), thực phẩm như thịt kho, cá kho, pa-tê, gà vịt kho, bơ, sữa hộp, đường trắng (hàng mua trong cửa hàng cung cấp đặc biệt), thuốc bổ. Ngoài ra bọn chúng có tiền nên sáng, trưa, tối còn ra hàng quán quanh trường ăn quà như phở, bún, bánh kẹo, trái cây. Nhiều đứa hai bữa ăn chính còn được ô-tô của bố đến đón về nhà ăn cơm với gia đình. Cho nên phần cơm ở trường hầu như chúng đem cho các bạn thân hoặc loại “bạn tà-lọt”! Thành ra sinh viên xuất thân gia đình thương binh, “liệt sỹ”, cán bộ trung, sơ cấp, “quần chúng tốt” hầu như đói quanh năm. Vì thế mới xuất hiện chuyện “tiếu lâm thời đại” có tên “Nhà 5 tầng” trong đó nói đến việc tầng lầu dành cho sinh viên ở không cần nhà cầu (WC) vì sinh viên bị ăn đói nên có cứt đâu để ỉa mà cần nhà cầu!
Trong tổ chức của mafia đỏ ở các trường đại học, sinh viên phải luân phiên nhau “lao động chân tay” ở trường như làm phụ bếp, làm vệ sinh trường lớp. Tụi mafia đỏ dùng biện pháp “bỏ đói” để thuần dưỡng tầng lớp “trí thức tương lai” đã khiến công việc “lao động chân tay” đó thành đặc ân. Vì, sinh viên tranh nhau được “lao động chân tay” (chứ không phải học kiến thức) để được nhà bếp tăng thêm một chút trong khẩu phần ăn do xà xẻo từ khẩu phần của các sinh viên khác. Tất nhiên con em quan lại đỏ không bao giờ phải “lao động chân tay” vì đã có vô vàn sinh viên xuất thân hạ phong xin được thay thế để giành bữa ăn ưu đãi do “bóc lột” của các bạn học mà ra. Nghĩa là, loại trừ con cái quan lại đỏ, những “trí thức tương lai” của xã hội mafia đỏ thống trị đã được thuần dưỡng thành thói quen “giành giật từng vài muỗng cơm độn và vài cọng rau già hoặc lát đậu phụ “nhiều hơn các bạn”. Cho nên cái gọi là “trí thức xã hội chủ nghĩa” thực chất là trí nô. Họ đã bị vô liêm sỉ hóa trong lúc đào tạo.
Về tinh thần:
Trước hết về danh xưng, tụi mafia đỏ không dùng chữ sinh viên mà gọi là học sinh đại học. Vì thế cũng bị đối xử như học sinh ở bậc phổ thông. Tỷ như cũng phải tập hợp xếp hàng vào lớp. Vào đến lớp rồi, yên vị xong phải hát tập thể vài bài theo sự điều khiển của quản ca. Thông thường là các bài “Kết đoàn” (nhạc Trung cộng, lời Việt dịch từ Tàu ra); vài bài có nội dung thi đua sản xuất, công ơn “đảng” (mafia đỏ) và chống “Mỹ-Ngụy”. Từ cách lên lớp cho đến làm bài kiểm tra, hệt như ở bậc phổ thông, hoàn toàn khác với cách đào tạo trên thế giới, ngay cả Nga hay Đông Đức. Nghĩa là người sinh viên sau khi lên lớp nghe giảng bài thì về học và làm bài theo tổ, hoàn toàn không có sự độc lập suy nghĩ. Đây là biện pháp chống sinh viên có thể suy nghĩ (tức tư duy) khác với ý đồ của tập đoàn mafia đỏ đầu sỏ. Đồng thời, kiểu học theo tổ, theo nhóm cũng nhằm “kiểm soát tư tưởng” của sinh viên.
Sinh viên xưa kia được tôn trọng cả ngoài xã hội lẫn ở nhà trường; được làm quen với việc nghiên cứu cẩn trọng và độc lập tư duy (tức suy nghĩ) trên các tài liệu; được ba tháng hè một năm học và nếu có năng lực học tập có thể cùng lúc ghi tên học hai hoặc ba ngành (thí dụ như lưỡng khao tiến sỹ Nguyễn mạnh Tường, vừa học luật vừa học văn chương; hay “thần đồng” Trần đại Văn, khi học ở Albert Sarraut trước 1954, học 3ème (tức đệ tứ phổ thông) nhẩy thi tú tài Pháp phần 1, qua ba tháng hè thi tú tài Việt phần 1; năm sau thi tú tài Pháp phần 2, qua ba tháng hè thi tú tài Việt phần 2, nghĩa là có bốn bằng tú tài trong hai năm học và sau đó lên đại học Hà-nội (trước 1954) cùng theo học hai ngành là toán đại cương đại học (M.G) và lý, hóa, sinh (P.C.B) và đều đạt kết quả “rất giỏi”. Còn sinh viên dưới chế độ mafia đỏ Hồ chí Minh chỉ được phép học một ngành, trong đó thời gian học kiến thức rất ít, không có điều kiện nghiên cứu ngoài tài liệu được phép. Vì ở thư viện có sự phân loại sách vở, tài liệu gọi là lạc hậu phản động, chỉ dành cho người có thẻ đặc biệt do giấy giới thiệu của bộ trưởng bộ chủ quản người nghiên cứu ký bảo lãnh, còn các giáo viên, sinh viên chỉ được học, tham khảo sách báo, tài liệu đã được kiểm duyệt, đảm bảo không có sự bất lợi cho chế độ mafia đỏ trong nước cũng như quốc tế và cái gọi là triết học Mác-Lê (Marx-Lénine). Trong 9 tháng học tập, sinh viên dưới chế độ mafia đỏ phải học cái gọi là chính trị, có nghĩa là chấp nhận cái gọi là chủ nghịa Marx-Lénine, tư tưởng Mao trạch Đông và tác phong Hồ chí Minh mà nội dung chủ yếu phải thấm nhuần là:
- Chủ nghĩa quốc tế vô sản tức ưu tiên bảo vệ Nga-xô-viết; thực hiện chiến lược bá chủ toàn cầu của Nga-xô qua cái gọi là giúp đỡ các “đảng bạn”, giúp đỡ cái gọi là “cách mạng dân tộc dân chủ” cả cổ động tuyên truyền cả người, cả vật chất. Thí dụ như mafia đỏ Việt Nam giúp cho Lào cộng, Cam-bốt cộng. Congo thời Lumumba cầm quyền; hoặc kiểu Cuba đem lính qua châu Phi cũng như châu Mỹ La-tinh v.v…
- Đấu tranh giai cấp là động lực của cách mạng và bạo lực cách mạng. Nghĩa là phải thừa nhận việc tiêu diệt các thành phần giai cấp xã hội bị mafia đỏ qui là phi vô sản là duy nhất đúng và cần thiết cho xã hội tiến lên, cũng như phải giải quyết mọi cuộc “cách mạng” có tính chất đấu tranh giai cấp bằng biện pháp duy nhất hiệu quả là bạo lực, như kiểu cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh.
- Chủ nghĩa Marx-Lénine là đỉnh cao trí tuệ của loài người. Chủ nghĩa đế quốc tất yếu phải sụp đổ. Cách mạng vô sản sẽ thành công trên toàn thế giới là điều khẳng định.
- Phép biện chứng của tự nhiên và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Tóm tắt tư bản luận của Marx và v.v…
Về trong nước Việt Nam thì phải học:
- Lịch sử cách mạng Việt Nam (tất nhiên đây là tài liệu xuyên tạc lịch sử chân thực của Việt Nam).
- Chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tự do vô chính phủ và phải thấy nền dân chủ tập trung ngàn vạn lần dân chủ hơn các nước ở thế giới tự do, Phải thấy tính ưu việt của chế độ ta (tức chế độ mafia đỏ Hồ chí Minh) và chủ nghĩa tập thể.
- Các nghị quyết của đảng mafia đỏ Hồ chí Minh cùng việc nghe báo, đài hằng ngày và nghe báo cáo ngoại khóa (chủ yếu là xuyên tạc, tô hồng, bôi đen).
Cùng với học lý luận chính trị còn có sự kết hợp của cái gọi là “lý luận và thực hành”. Nghĩa là sinh viên phải tham gia “xây dựng trường lớp” để hiểu về cái gọi là “lao động sáng tạo ra của cải vật chất”; phải giúp nông dân trong các ngày thu hoạch, làm cỏ, tát nước v.v…; phải giúp công nhân tức làm vệ sinh công nghiệp ở các nhà máy; phải tham gia đầy đủ các cuộc mít-tinh chính trị tức rèn luyện lập trường cách mạng; phải tham gia sinh hoạt văn nghệ, thể thao nhằm rèn luyện thành cái gọi “con người mới xã hội chủ nghĩa”!!!
Đối với sinh viên, điểm học tập chính trị và lao động quan trọng hơn điểm kiến thức của ngành học. Nó còn là cơ sở cho việc duyệt tốt nghiệp và bố trí nơi công tác, cũng như đó là tiêu chuẩn để thành “cảm tình của đảng mafia đỏ” hoặc được kết nạp thành đảng viên mafia đỏ.
Ngoài môn chính trị kết hợp với phải lao động chân tay như đã trình bày ở trên, sinh viên còn phải tập quân sự. Nghĩa là sinh viên được đào tạo thành trí nô cùng lúc có thể sử dụng làm binh nô khi cần.
Bè lũ mafia đỏ Hồ chí Minh luôn luôn kêu gào rằng; “có áp bức thì có đấu tranh” để “chính nghĩa hóa” những hành động gây chiến tranh phục vụ cho chủ nghĩa bành trướng toàn diện của đế quốc đỏ mà chúng là tay sai, cũng như những thủ đoạn bạo lực mà chúng thực thi trong cái gọi là “cách mạng long trời lở đất”. Chúng như thằng mù múa gậy vườn hoang nên không thể thấy rằng chính chúng là tập đoàn tiếm quyền thống trị và đàn áp tàn bạo nhất lịch trong sử loài người, còn hơn cả lũ xâm lược phương Bắc xưa kia và gần trăm năm đô hộ của thực dân Pháp. Vì thế các tầng lớp nhân dân Việt Nam nói chung, trí thức và “trí thức tương lai” (tức học sinh, sinh viên) của Việt Nam nói riêng, dù bị quản lý và khống chế chặt chẽ bằng tổng hợp mọi thủ đoạn đàn áp của lũ xâm lược, thực dân xưa kia kết hợp với phương pháp tẩy não khoa học của đế quốc đỏ dựa trên học thuyết Paplov, vẫn có 1001 cách đấu tranh khi công khai, khi ngấm ngầm đã có tác dụng bào mòn, làm hoen rỉ chế độ khát máu mafia đỏ Hồ chí Minh.
Cho nên, khoảng đầu năm 1970, Tố Hữu, ủy viên chính trị bộ kiêm ủy viên ban thư ký đảng mafia đỏ, phụ trách trưởng ban tuyên huấn đỏ đã chủ biên cho ra đời cuốn “Về bọn Nhân văn – Giai phẩm chống đảng”. Cuốn sách này phát hành nội bộ nhằm “nâng cao tinh thần cảnh giác đối với tầng lớp văn nghệ sỹ, trí thức” trong giới mafia đỏ cầm quyền của trung ương và các tỉnh, thành. Đồng thời, Tố Hữu cũng đưa ra “sáng kiến cò mồi” bằng cách giao cho trung tá nhà văn Nguyễn Khải, viết 9 bài “hơi tiêu cực” đăng trên báo Nhân dân. Kết quả chỉ có một giáo viên trẻ ở Gia-lâm (Hà-nội) mắc bẫy và được tên mật vụ Dương Thông hỏi thăm sức khỏe!
Tố Hữu bị đồng bọn trong chính trị bộ chê, hắn chối việc giật dây Nguyễn Khải. Hoàng Tùng, tổng biên tập báo Nhân dân, ngậm miệng nhận tội “mất cảnh giác”. Còn Nguyễn Khải, vội chạy vấn kế một “sư phụ” nên khi bị Trường Chinh hỏi tội đã nhận tất cả tội lỗi do lập trường bản thân giao động. Vì thế, sau một thời gian bị ngồi chơi xơi nước, bị bạn bè xa lánh, Nguyễn Khải được Tố Hữu thi ân cho đeo lon đại tá, giữ ghế phó tổng thư ký hội bút nô kiêm thường vụ đảng đoàn của mafia đỏ trong cái gọi là “Hội liên hiệp văn học nghệ thuật”!!! Thế là một bước từ việc chấp nhận thân phận “cò mồi” và trung thành bảo vệ “uy tín” cho Tố Hữu, Nguyễn Khải nhảy lên thành quan lớn văn nghệ đỏ: một trí nô bự!!! Tiếng nói của Nguyễn Khải còn nặng ký hơn cả tên trí nô “còng lưng bẩm sinh” Nguyễn đình Thi (lời Thi nhận tội với nhà văn Nguyễn Tuân. Chẳng là nhà văn Nguyễn Tuân trách Nguyễn đình Thi thấy trên là còng lưng xuống không dám nói sự thật về những báo cáo láo của Bảo định Giang. Thi đã trả lời đại ý: “Tôi vốn còng lưng bẩm sinh mà.” Thế là nhà văn Nguyên Tuân chỉ còn cách chép miệng bỏ đi mà thôi).
Những phần trên là điểm lại những nét chính yếu của tội ác ngụy quyền Hồ chí Minh đối với nhân dân miền Bắc Việt Nam, do đích thân Hồ chỉ đạo, vì hắn nắm trong tay những chức vụ chủ yếu của bộ máy cai trị của thực dân đỏ khi ấy:
- Chủ tịch đảng mafia đỏ (hay tập đoàn công dân búa liềm);
- Chủ tịch nước (một thứ thái thú của thực dân đỏ);
- Chủ tịch hội đồng quốc phòng (người có quyền lực cao nhất của các cơ quan chuyên chính).
Dưới đây, xin nêu lên tội ác và âm mưu thâm độc của Hồ đối với cả nước Việt Nam nói chung, phần miền Nam nói riêng.
Ngay từ 1930, lúc cái gọi là “đảng cộng sản Đông-dương” được thành lập với bảy tên toàn là người Việt Nam, không có một mống Lào hay Cam-bốt nào, khiến ta phải hiểu rằng, thực dân đỏ, thông qua quốc tế 3, đẻ ra công cụ bành trướng thuộc địa đỏ ở Đông-dương này, lậy tụi cộng sản Việt Nam làm chủ lực. Cho nên dù phương thức thực hiện có linh hoạt thay đổi theo từng thời kỳ, tùy theo thế và lực của mẫu quốc đỏ và công cụ bành trướng là “đảng cộng sản Đông-dương”; dù có thay đổi tên thành “lao động” hay “nhân dân cách mạng” hay “hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác”, thì mục tiêu tối hậu vẫn là biến ba nước Đông-đương (Việt Nam, Lào, Cam-bốt) thành thuộc địa đỏ, là tiền đồn của Nga-xô tiến tới xâm lược toàn vùng Đông-nam-á và bao vây đối thủ bá quyền của Nga-xô là Trung cộng (sau này) và đảng cộng sản Tàu trước đó.
Hồ được thực dân đỏ giao nhiệm vụ xây dựng phong trào “cộng sản ở Đông-nam-á”, giám sát một phần nào đó hoạt động của cộng sản Tàu, nhưng đối với “cộng sản Đông-dương” thì Hồ chỉ là người liên lạc giữa “quốc tế 3” và “cộng sản Đông-dương” mà thôi. Chưa bao giờ Hồ được coi là lãnh tụ của “cộng sản Đông-dương” như Trần Phú, Lê hồng Phong, Nguyễn thị Minh Khai, Hà huy Tập, Phùng chí Kiên v.v…
Quốc tế 3 (tức Nga-xô) chỉ sử dụng Hồ vì hắn tỏ ra mẫn cán, chịu khó chịu khổ và sẵn sàng làm bất kể những gì dù đồi bại, bẩn thỉu và tàn bạo. Nghĩa là Hồ được dùng chứ không được tin.
Sau này, khi nắm được quyền lực trong tay, Hồ đã vội vàng tự đánh bóng trước vào chính lúc biết bao công việc của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vừa bắt đầu. Vậy mà Hồ vẫn dành công sức để viết về bản thân, dưới cái tên Trần dân Tiên (1948) và T. Lan. Điều đó chứng tỏ nó rất quan trọng đối với Hồ. Và quả rằng thủ đoạn lưu manh đó của Hồ có đem lại nhiều kết quả.
1. Lũ bồi bút của Hồ ra công tô vẽ trên cái khung giả dối đó của Hồ, lòe hết thế hệ này đến thế hệ khác, đến mức có những tên biết rõ con người của Hồ mà cũng xoay ngòi bút 180 độ để ca ngợi Hồ như Trường Chinh, Trần huy Liệu, Nguyễn khánh Toàn, Trần văn Giàu v.v…
2. Các nhà báo, nhà văn, sử gia nước ngoài – kể cả loại có tiếng tăm – cắm đầu dựa vào núi tụng ca đó để vẽ rắn thêm chân, đến mức mấy “me-xừ quan liêu” ở UNESCO chút xíu tặng cho tên Việt gian số một, tên sát nhân, tên chó dái đụ bậy, tên đạo văn thành “danh nhân văn hóa thế giới!!! Cũng may, nhờ cộng đồng người Việt ở hải ngoại đã ngăn chặn cái chuyện lố bịch đó kịp thời.
3. Lũ bút nô ở mẫu quốc đỏ chính thức tô vẽ, đánh bóng cho đứa con hoang đã từng bị hắt hủi, bỏ qua các hồ sơ lưu trữ tại mẫu quốc đỏ.
Một loạt những cái đầu, những ngòi bút thiếu trung thực, thiếu dũng cảm, vô lương tâm đó đã gây họa cho nhiều thế hệ của nhân dân Việt Nam. Vì, cho đến tận bây giờ, còn có những người Việt Nam ở hải ngoại (trong nước thì khỏi nói) viết sách “chống cộng” mà vẫn sao chép của giả, kê hết ông Tây này đến bà Đầm kia, không một lời phê phán, đối chiếu so sánh tài liệu nên tên sách thì chống đối mà nội dung thành chống đỡ cho họ Hồ. Chính lý do này mà đến nay tập đoàn Việt gian cộng sản và ngụy quyền mafia Hà-nội vẫn lấy cái thây ma Hồ chí Minh làm lá chắn, che thân.
Những báo cáo của Trần Phú và Hà huy Tập gửi quốc tế 3 hãy còn, trong đó có tố giác năm 1930, chưa chờ chỉ thị của quốc tế 3 mà Hồ đã mạo nhận “thừa lệnh” quốc tế 3 để thành lập “đảng cộng sản Việt Nam”, nên sau phải đổi lại là “đảng cộng sản Đông-dương”. Thư của Trần Phú gửi quốc tế 3 (cục lưu trữ trung ương đảng cộng sản Liên-xô cũ) có đoạn: “Quốc chỉ là liên lạc viên thôi, nhưng ở đâu cũng ra lệnh, cũng đòi báo cáo làm chúng tôi cực kỳ khó khăn.” Biên bản kiểm điểm Hồ và chê Hồ ngu của quốc tế 3 cũng còn đó. Việc Hồ bị xếp lương còn dưới Nguyễn khánh Toàn vẫn còn đó. Việc Hồ khi đã nắm được bộ máy cai trị ở Việt Nam, qua Nga-xô vẫn bị Stalin coi thường (đúng ra là vừa khinh vừa nghi) cũng còn đó. Tất cả những điều trên và vài sự kiện khác nữa cho phép ta kết luận rằng, nguyên nhân Nga-xô dùng Hồ mà không tin Hồ vì:
Hồ là người Việt Nam đầu tiên sang Nga-xô tự nguyện hiến dâng cuộc đời và tâm hồn cho mẫu quốc đỏ. Nên nhớ Nga-xô là một nước tồn tại bằng an ninh, tình báo, nên chắc chắn và phải có sự thẩm tra lý lịch của Hồ. Chắc chắn Nga-xô phải biết những điều sau về Hồ:
a) Trong đơn xin học trường thuộc địa ở Pháp, Hồ khai tên là “Nguyễn tất Thành” và năm sinh là 1892. Khi tới Nga-xô, Hồ lại khai tên Nguyễn ái Quốc và năm sinh là 1985;
b) Hồ cũng không khai là trước ngày qua Nga, Hồ có vợ người Pháp (có con với Hồ đặt tên là Louis Daguière);
c) Hồ cũng không khai là đã làm đơn xin học trường thuộc địa Pháp và hứa sẽ phục vụ mẫu quốc Pháp.
d) Hồ cũng không khai rằng “Nguyễn ái Quốc” là cái tên chung của nhiều người. Cũng như các bài báo ký tên “Nguyễn ái Quốc” không phải đều là do Hồ viết. Nếu có bài nào đó do Hồ viết thì cũng đã được những vị cách mạng Việt Nam khác chữa hộ, như các cụ Phan văn Hùm, Nguyễn thế Truyền, Nguyễn an Ninh.
e) Hồ cũng không khai rằng cha Hồ là một bậc khoa bảng đã tình nguyện được làm tay sai cho thực dân Pháp, sau bị thải hồi vì tính tình hung bạo, nghiện rượu, say sưa đã vô cớ đánh chết dân lành làm thú vui “giã rượu”!!!
Những sự việc nêu trên cùng với lối sinh hoạt của Hồ như đĩ bợm, thích đớp hít (lúc nào Hồ cũng phải hút thuốc lá thơm Craven A, đốt thuốc liên tục; ngay lúc kháng chiến chống Pháp, Hồ vẫn phải vài gói Craven A một ngày, nhưng để tránh tiếng lãng phí, xa xỉ, Hồ bịa rằng “trung ương ra lệnh Hồ phải hút thuốc là thơm”. Lưu manh số dzách thật!); giả dối cả những việc không đáng gì v.v… nên Nga-xô dùng Hồ như kiểu Stalin dùng Yagoda vậy. Nghĩa là vì Hồ hám danh, hám lợi, hám ăn, hám gái; bất nhân, tàn bạo (chắc do gene của cha đẻ). Sau này khi Hồ đã thành công như Hồ tự thú: “Gặp thời một tốt cũng thành công” thì mọi sự đen được đổi thành trắng.
Biết thân phận như vậy, nên 1948, dù biết là lố bịch nhưng không thể khác được, Hồ đành lấy bút danh Trần dân Tiên để tự bộc lộ có dụng ý:
1) Cho đàn em cứ mẫu đó mà phết son trát phấn, đừng đi tìm hiểu lòng thòng mà lộ vở;
2) Biểu lộ khéo léo quá trình khuyển mã đối với thực dân đỏ cũng như quyết tâm làm khuyển mã đến hơi thở cuối cùng (như di chúc của Hồ sau này).
Vì thế, ngay khi phải ký hiệp định Genève 1954 về Việt Nam thì Hồ đã chuẩn bị để vi phạm. Đó là lệnh cho cài người lại miền Nam để phá các chính phủ của Nam Việt Nam sau này, không cho rảnh tay xây dựng ấm no, hạnh phúc cho dân; để dụ khị những loại cơ hội, hám danh, hám quyền (lấy áo gấm yêu nước che đậy), tùy loại mà kẻ thì “trí thức yêu nước”; kẻ thì “thành phần thứ 3”; kẻ thì “du ca phản chiến”; kẻ thì “vào bưng làm bù nhìn”; kẻ thì “cạo đầu vào chùa”; và có nhiều tên vào nằm vùng ở các tổ chức quân, dân, chính, đảng ở miền Nam (sau tháng 4/1975, nhiều tên đã lộ mặt). Chứng cớ rõ ràng nhất là nội dung nghị định 23/1999/NĐ-CP ngày 15-4-1999 của ngụy quyền Hà-nội về chế độ đối với “quân nhân, cán bộ được đảng cử ở lại miền Nam sau hiệp định Genève năm 1954”(sic). Cũng như nội dung Nghị quyết của hội nghị 15 (khóa 2 mafia đỏ) tháng 1-1959, do Hồ chủ trì, quyết định xâm lược vũ trang miền Nam Việt Nam. Nghị quyết 15 này hạn chế phổ biến nhưng vẫn được lưu trữ. Thế là chỉ 13 tháng sau ngày Hồ cho ra nghị quyết 13 (12/1957) mà nội dung là nắm vững chuyên chính và miền Bắc phải tiến lên XHCN, nghĩa là tập trung toàn bộ nhân lực, tài lực của miền Bắc Việt Nam vào tay tập đoàn mafia cộng sản bằng biện pháp cưỡng chế bạo lực, để chuẩn bị thực hiện tiếp tục chính sách bành trướng của thực dân đỏ.
Tập đoàn mafia cộng sản, sau khi Hồ chết, muốn tận dụng hiệu quả các chuyện phịa về Hồ trước đây ở tầm cỡ quốc tế để làm lá chắn che đậy bộ mặt Việt gian, phản dân hại nước của chúng, nên chúng đã chỉ đạo việc chạy tội cho Hồ, và con dê tế thần đó là Lê Duẩn (có lẽ vì Duẩn tuổi Đinh mùi, cầm tinh con dê cụ). Cho nên ngay cả một số người rời hàng ngũ mafia đỏ, ra hải ngoại (chẳng biết vô tình hay hữu ý) cũng viết sách chạy tội cho Hồ, nào là Hồ không liên can gì đến việc vũ trang xâm lược miền Nam; nào là Hồ bị Lê đức Thọ ngăn không cho phát biểu về nghị quyết 9 (khóa 3), tức nghị quyết Mao-ít(!); nào là Hồ bị mất quyền vào tay Lê Duẩn, đến mức vụ tàn sát 1968 (Mậu Thân) ở Huế, Hồ chỉ được cho thu bài thơ chúc Tết, còn ngày giờ Hồ đâu có biết v.v… (tin dò rỉ từ Vũ Kỳ (thiếu tướng), thư ký riêng của Hồ). Thật lạ, phe cánh Duẩn, Thọ bịt được mồm Hồ mà không bịt nổi mồm me-xừ Vũ Kỳ!!! Thậm chí có cái loa rè còn bạo phổi đưa tin là chiều 2-9-1969, Hồ say rượu bất nhã với đại sứ Nga-xô, nên tối đó Lê Duẩn đã đem súng lục phệt bể sọ Hồ. Nghe tin thấy đúng là “kẻ bị tâm thần” học đòi nghề viết!