Friday, December 19, 2008

# Sự tích con yêu râu xanh ở VN - bài 5




S tích:

Con yêu râu xanh Vit Nam

* * * * *

Việt Thường

Bài 5

Xã hội miền Bắc Việt Nam được Hồ sắp xếp lại

Một bên là tổ chức công dân búa liềm, phải cải tạo lại tư tưởng qua cái gọi là “chỉnh huấn mùa xuân”, “chống bè lũ nhân văn – giai phẩm” và “ôn nghèo nhớ khổ”. Từ đó tất cả đều phải đền đáp công ơn đảng (tức Hồ), bác (cũng là Hồ) và thề phấn đấu cho lý tưởng và sự nghiệp của “bác Hồ vĩ đại” cho đến hơi thở cuối cùng và cho ra đời lũ đảng viên mới gọi là lớp đảng viên Hồ chí Minh.

Vậy “lý tưởng và sự nghiệp vĩ đại” của Hồ cụ thể ra sao? Đó là:

a- Bảo vệ Liên-xô, thành trì cách mạng vô sản toàn thế giới;

b- Làm tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa trong công cuộc chiến đấu chống “chủ nghĩa thực dân kiểu mới”, đứng đầu là đế quốc Mỹ, tên sen đầm quốc tế;

c- Dưới sự lãnh đạo của Liên-xô và cùng các đảng cộng sản anh em đưa sự nghiệp cách mạng tới thế giới đại đồng.

Nội dung thực sự của thứ chủ nghĩa màu mè mang nhãn thực dân đỏ này chỉ có nghĩa là:

1- Nhân dân Việt Nam là binh nô ở ngoại vi của Nga-xô, phải bảo vệ Nga-xô ở vòng ngoài;

2- Nhân dân Việt Nam phải chấp nhận làm binh nô, đất nước Việt Nam là chiến trường trong cuộc chiến kiểu mới giữa Nga-xô (phe cộng) và Mỹ (thế giới tự do);

3- Làm nhiệm vụ bành trướng của chủ nghĩa thực dân đỏ, do Nga-xô lãnh đạo, ra toàn thế giới mà trước hết là miền Nam Việt Nam, rồi Lào và Cam-bốt; xa hơn nữa là các nước ở Đông-nam-á.

Vì thế, về tổ chức, Hồ cho khai tử cái gọi là Mặt trận Liên Việt, đẻ ra cái gọi Mặt trận Tổ quốc với cương lĩnh áp đặt cho miền Nam Việt Nam để không thể có tổng tuyển cử trong cả hai miền tiến tới thống nhất như hiệp định Genève về Việt Nam qui định. Và đấy là cái cớ để Hồ dùng ngụy quân cộng sản xâm lăng miền Nam Việt Nam (Nghị quyết trung ương mafia lần 15 (khóa 2) tháng 1-1959).

Hồ cũng cho dựng ra quốc hội bù nhìn khóa 2 và thông qua cái gọi là “hiến pháp 59”. Nghĩa là xóa sạch vết tích của Chính phủ Liên hiệp đa đảng, xé bỏ Hiến pháp 1946. Thượng thư Bùi bằng Đoàn quyền chủ tịch quốc hội 1 bị chết lãng nhách. Vua Mèo Hà-giang là Vương chí Sình, phó chủ tịch quốc hội 1, bị bệnh (?) và vào nằm ở bệnh viện Việt-xô (do Nga-xô viện trợ) cho đến chết. Ủy viên thường vụ quốc hội 1 là bà Trịnh thục Viên được về hưu và v.v… Quốc hội 2 do Trường Chinh làm chủ tịch, các phó chủ tịch là Hoàng văn Hoan; thượng tướng ngụy quân cộng sản Chu văn Tấn, chủ tịch phụ nữ (nô lệ mới) Nguyện thị Thập, chủ tịch tổng công đoàn Hoàng quốc Việt và tổng thư ký là Tôn quang Phiệt, ủy viên dự khuyết trung ương mafia đỏ. Hầu hết là mafia đỏ các cấp, các ngành, từ binh lính, công an đến kinh tế, văn hóa, thêm mấy chị quét rác (ở khu phố của Hồ, Đồng, Giáp, Tố Hữu ở), anh tài xế xe lửa, tài xế xe ô-tô và v.v… Bọn này có nhiệm vụ chủ yếu là vỗ tay và hô khẩu hiệu do bác sỹ Trần duy Hưng, chủ tịch Hà-nội, cầm chịch. Vài anh ở hai đảng Dân chủ và Xã hội, sau khi hai đảng này đã được cải tạo tại chỗ, không được phép kết nạp đảng viên mới mà cũng không được phép xin ra đảng, và có một chi bộ đảng cộng sản nằm trong trung ương lãnh đạo trực tiếp, cũng được cho làm nghị gật chính hiệu con nai vàng. Dụng ý của Hồ là muốn quốc tế (loại cận thị) vẫn nghĩ rằng quốc hội 2 cũng là quốc hội đa đảng như quốc hội 1.

Sau này, khi bắt đầu tiến hành xâm lăng miền Nam, Hồ cho hai đại diện của hai đảng “gà thiến” là Dân chủ và Xã hội được cái ghế phó chủ tịch quốc hội, đó là kỹ sư Trần đăng Khoa ở Dân chủ và Nguyễn Xiển ở Xã hội. Đấy chính là hai bông hoa mướp vàng chóe, Hồ dùng làm mồi câu mấy chú ếch ộp làm chính trị ở miền Nam, như Trịnh đình Thảo, Trương như Tảng, Dương quỳnh Hoa, Nguyễn hữu Thọ, Huỳnh tấn Phát, Trần bửu Kiếm, Lâm văn Tết v.v… để trốn vào bưng, rồi được đưa ra rừng lim ở Thanh-hóa, đóng trò hội họp cho ra đời mấy gánh hát chính trị để me-xừ nhà báo “tầm cỡ quốc tế tài ba” là Burchett quay phim, phỏng vấn. Sau đó tất cả ra khách sạn Hoàn Kiếm Hà-nội đánh bài tây, thỉnh thoảng mang phông màn, đạo cụ qua mấy nước chư hầu của thực dân đỏ hát lăng nhăng vài câu vọng cổ cho ra vẻ “thương nhớ” nhân dân miền Nam “đói khổ phải ăn gạo pha hạt ny-lông”; còn lính Mỹ thì đi trực thăng ăn cướp từng cân gạo của nông dân vì đói quá, như bài viết của mafia đỏ!!!(???) Chỉ tiếc rằng nhà “trí thức yêu nước” Lữ Phương chưa đủ tiêu chuẩn ra Hà-nội nên vẫn phải ở bưng, nghe lệnh của các ”đồng chí” Trần bạch Đằng và Hai Khuynh v.v… một cách rất chi là nghiêm chỉnh!!!

Cái chế độ mà Hồ xây trên đầu, trên cổ nhân dân miền Bắc Việt Nam là độc tài cực quyền. Đến cả chữ nghĩa, ngôn ngữ dùng cho mafia đỏ cũng độc quyền. Tỷ như cụm từ “tổng bí thư” chỉ dùng riêng cho mafia đỏ, đối với các đảng phái khác (dù quốc tế, như đảng Xã hội Pháp chẳng hạn) cũng chỉ được dùng cụm từ “tổng thư ký”.

Các vị trí trong tổ chức mafia đỏ cũng lặp theo kiểu công, hầu, bá, tử, nam. Đó là:

- Tước “công” là ủy viên bộ chính trị;

- Tước “hầu” là ủy viên dự khuyết bộ chính trị;

- Tước “bá” là ủy viên ban bí thư;

- Tước “tử” là ủy viên trung ương;

- Tước “nam” là ủy viên dự khuyết trung ương.

Còn Hồ là tước “vương” (vì Hoàng Đế dành cho mẫu quốc). Chử “bác” của Hồ có nghĩa là “trẫm” hay “cô gia”.

Đây không phải là chuyện “phịa” mà căn cứ vào việc năm 1973, Trường Chinh cho tổ chức họp mặt dòng họ Đặng, đã khoái chí nói rằng: “Nhà họ Đặng có ba đời làm Quận công”. Đặng trần Thường là đời thứ hai làm Quận công. Đời thứ ba chỉ có Trường Chinh là nổi nhất, là ủy viên chính trị bộ mafia đỏ Hồ chí Minh. Thế có phải là Trường Chinh đã tự nhận mình là Quận công rồi không!!!

Ngụy quyền Hồ chí Minh còn phân biệt đến cả loại xe, màu xe cho từng cấp; phân loại cung cấp đến cả nhà ở, lương thực, thực phẩm, quan tài, giải trí, nghỉ ngơi, chữa bệnh v.v… Cụ thể là: Xe của Hồ là Tchaika bọc thép của Nga-xô; các ủy viên chính trị bộ mafia (cả ủy viên dự khuyết) đi xe Volga đời mới màu xanh vỏ chai; ủy viên ban bí thư mafia và ủy viên trung ương loại nặng ký (như Hoàng quốc Việt, Nguyễn thị Thập, Hà thị Quế, Chu văn Tấn) đi xe Volga đời mới màu đen; các loại “cây kiểng dân chủ” cao cấp như Nguyễn hữu Thọ, Huỳnh tấn Phát, Phan kế Toại, Nguyễn văn Huyên v.v… đi xe Volga đời mới có màu khác với các màu nói trên. Các bí thư tỉnh ủy mafia đi Volga cũ màu đen, trong đó có bác sỹ Trần duy Hưng, chủ tịch Hà-nội. Thấy bác sỹ Trần duy Hưng cần mẫn hô khẩu hiệu, Hồ cho riêng Trần duy Hưng chiếc Peugeot 204 (do Pháp tặng Hồ), nhưng bị Nguyễn Lam (khi ấy là ủy viên ban bí thư kiêm bí thư thứ nhất thành ủy mafia Hà-nội) tước mất. Trần duy Hưng im re đành vẫn đi xe cũ. Hồ biết chuyện này nhưng cũng lờ đi! Theo mốt mafia, tất cả các xe đều có rèm xe che kín các cửa kính, kể cả cửa kính sau xe!

Hồ cho hình thành các cửa hàng cung cấp cho quan lại đỏ, như thực phẩm ở Tôn Đản; tiêu dùng ở phố Hàng Trống (cạnh nhà ga Phú Gia); nơi nghỉ mát trong nước: Tam-đảo, Trà-cổ, Đồ-sơn (Tam-đảo thì độc quyền; còn Trà-cổ và Đồ-sơn thì rào thành khu vực riêng); sau lấy thêm nhiều vi-la và xây mới vi-la ở Bãi-cháy (Hạ-long). Nghỉ mát ở nước ngoài thì sang Hắc-hải (Nga-xô) hoặc Động-đình-hồ (Trung cộng). Bọn chúng đi nghỉ mát cả ba đời, như Trường Chinh cho cả vợ đi, cả gia đình Đặng xuân Kỳ và các con (là con trai và cháu nội của Trường Chinh) sang Hắc-hải vui chơi cả tháng, còn nhân dân (được chúng “phong” là chủ nhân) thì lao động: “Làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm; làm thêm chủ nhật”. Cán bộ, công nhân viên được 10 ngày phép năm thì phải làm đơn xin hiến để “đánh thắng Mỹ-Ngụy”!!!

Ngụy quyền Hồ chí Minh khi ấy còn cho xây ở khu Quảng-bá (Hồ Tây, Hà-nội) một loạt các nhà nghỉ cá nhân (kiểu cottage) gọi là cho trung ương nghỉ ngơi, giải trí tại chỗ, có các “cháu gái” lôi từ nông thôn ra (đa số là sắc tộc thiểu số ở Cao-bằng, Lai-châu) để giải khuây cho Hồ và lũ tay chân thân cận. Càng bước vào cuộc chiến xâm lược miền Nam Việt Nam thì bọn chúng càng ăn chơi sa đọa, hoàn toàn là tính cách của lũ cầm quyền thực dân trên các mảnh đất thuộc địa.

Khi chiến tranh căng thẳng, nghĩa là Mỹ bắt đầu oanh tạc ra phía Bắc, con cái bọn thống trị được đưa sang Nga-xô hoặc các nước chư hầu Đông-âu của Nga-xô học hành, dù là đang học ở cấp phổ thông. Còn trường học của con em nhân dân và cán bộ loại thấp cổ bé miệng được sơ tán về nông thôn để làm nơi tàng trữ vũ khí, và học sinh là lá chắn bảo vệ những kho vũ khí đó. Nếu Mỹ đánh vào đó thì chúng la lên là Mỹ “đánh trường học, bệnh viện, đền chùa và nhà thờ v.v…” Câu chuyện trường mẫu giáo Trạm Trôi và bệnh viện Bạch-mai (Hà-nội) là hai thí dụ điển hình.

Trên đây tạm tóm tắt để bạn đọc có chút khái niệm về “anh hùng giải phóng dân tộc” Hồ chí Minh, thực chất còn “chó má” hơn cả “chó” nữa kia!

2- Về phần nhân dân Việt Nam từ vĩ tuyến 17 ra phía Bắc thì, sau khi bị các đòn của ngụy quyền Hồ chí Minh gọi là “cải cách ruộng đất”, “chấn chỉnh tổ chức”, “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” và “cách mạng văn hóa tư tưởng”, mà nội dung cũng vẫn là cái khẩu hiệu hành động (hay cương lĩnh chính trị) của cái gọi là “Xô-viết Nghệ-tĩnh”: “Trí, phú, địa, hào. Đào tận gốc, trốc tận rễ” đều bình đẳng như nhau. Đúng nghĩa của nó là tất cả đều là “cải tạo viên” trong cái trại cải tạo mang tên “Việt Nam dân chủ cộng hòa”. Do Hồ chí Minh làm chánh-giám-thị. Mọi người đi lại, ăn mặc, làm nghề gì, học cái gì, cư trú ở đâu, cho đến cả ma chay, cưới hỏi v.v… nhất nhất đều phải xin phép. Nhiều người nước ngoài, cả nhà văn, nhà báo, giáo sư, luật sư, cho đến chính khách nữa mới chết chứ, như Xi-ha-núc hay Xu-các-nô, có dịp qua thăm cái trại cải tạo vĩ đại “Việt Nam dân chủ cộng hòa”, có vẻ khoái lắm, cười híp mắt lại nên có nhìn thấy gì đâu. Nào khen trật tự, hiếu khách, tươi tắn, yêu kính “lãnh tụ” (tức Hồ). Bởi họ thấy mọi “nhất trí” nhe răng cười; “nhất trí” vẫy cờ; “nhất trí” hô khẩu hiệu; đi đứng hàng ngũ chỉnh tề như “lính diễn hành”. Thật buồn cho những “bộ óc ít nếp nhăn” đó, không thể hiểu nổi một điều đơn giản là làm sao mà hàng vạn người lại có thể “nhất trí” thế được. Bởi chỉ có một tập hợp những nô lệ mới nhất trí trong một biểu lộ mà chủ nô quy định. Còn trong xã hội tự do thì sẽ có người hoan nghênh, có người ném trứng thối và cũng có người chẳng thèm quan tâm. Cũng chính vì sự đơn giản trong suy nghĩ, phân tích như thế mà ngày họ Hồ ngủm củ tỏi, người ta thấy những thước phim quay cảnh từ Phạm văn Đồng cho đến “quân chúng nhân dân” đều khóc thảm thiết như mưa!!!

Bạn đọc thử nghĩ xem, cái đám nô lệ đó, thấy máy quay phim rè rè chạy chỉa vào mình, hỏi rằng có uống mật gấu cũng không dám “bình thản” chứ nói gì cười trước cái chết của tên chủ nô. Chẳng những thế, còn cố nghĩ xem có bao nhiêu nỗi đau khổ của cả làng, cả họ để mà mủi lòng khóc thật thê thảm, biết đâu lọt vào mắt của một cai ngục nào đó mà khẩu phần bữa ăn được thêm chút canh cặn.

Rồi đây có thể con, em chúng ta xem cảnh tang lễ họ Hồ, nếu không được giải thích trước, chắc cũng sẽ kết luận một cách hồ đồ rằng: “Nhân dân Việt Nam yêu quý bác Hồ”!!!

Sau khi đã tước đoạt tài sản của toàn dân, tập trung tất cả tài sản đó vào tay tập đoàn đầu lãnh “công dân búa liềm” của Hồ, ngụy quyền Hà-nội tổ chức lại các hoạt động sản xuất ở nông thôn và thành thị dưới cái mỹ tự mơ hồ là “xây dựng cơ sở vật chất và phương thức sản xuất của chủ nghĩa xã hội”. Nghĩa là: ở nông thôn thì tài sản sau cải cách ruộng đất và sửa sai của cải cách ruộng đất chia cho cốt cán và nông dân nghèo, nay vì “anh hùng giải phóng dân tộc” của Lữ Phương là Hồ chí Minh lại thu hồi lại trong cái gọi là “hợp tác hóa nông nghiệp”, nghĩa là toàn thể nông dân trở lại thân phận “người cày có ruộng cày. Xin phép được trình bày rõ hơn điểm này để bạn đọc hiểu cái “lưỡi ê-đốp” của họ Hồ. Một trong những cái mồi mà tụi theo “chủ nghĩa cộng sản” sử dụng để câu nông dân là khẩu hiệu: “Người cày có ruộng”, nghĩa là những người lao động thực sự ở nông thôn phải là chủ sở hữu thửa ruộng mình cày. Khác với thực tiễn của chế độ phong kiến, địa chủ (không cày) là sở hữu chủ của ruộng đất, còn người cố nông – không có ruộng đất – là người thực sự cày ruộng (hay nói cách khác, họ có ruộng để cày, ruộng là của chủ, họ là người cày thuê).

Dù chất phát đến đâu thì khi bị bó buộc thi hành “hợp tác hóa nông nghiệp”, người nông dân cũng hiểu là thân phận họ vẫn chỉ là “người cày có ruộng để cày”, cho nên ở nông thôn khi đó mới có câu:

“Xưa địa chủ mướn đi cày

Nay ơn “bác” mướn lại cày ruộng xưa

Sự chống đối đó của nông dân (sau đó là của công nhân xí nghiệp, xã viên hợp tác xã thương nghiệp, tiểu thủ công nghệ ở thành thị) nên ngụy quyền mafia Hồ chí Minh mới vội đẻ ra cụm từ “ngang như cua” là: “đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.

Ba bộ phận của cụm từ trên được giải thích dễ hiểu qua mô hình ở đồn điền ông Đốc Lương (Cẩm-khê, Phú-thọ), như đã viết ở trên, thành hình ảnh cụ thể như sau:

+ Cái đồn điền là của ông Đốc Lương nên ông ta lãnh đạo

+ Đội Phiên được ông Đốc Lương thuê quản lý nên quản lý

+ Tá điền cày cuốc, làm cỏ, gặt hái… được cho đi tàu bay là chủ.

Trong lịch sử Việt Nam, chưa bao giờ nhân dân Việt Nam bị cai trị tàn bạo và nghe nói láo nhiều như dưới sự cai trị của chủ nghĩa thực dân đỏ mà ngụy quyền Hồ chí Minh là công cụ (sau tháng 4-1975, hàng triệu người miền Nam bị đưa đi tập trung cải tạo có thể hình dung cơ chế tổ chức ở mọi trại cải tạo là thể vi mô của cái thể vĩ mô “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).

Những người nô lệ kiểu mới đó ở nông thôn Bắc Việt Nam âm thầm đấu tranh chống tụi thực dân đỏ. Trong văn hóa thì có thơ, vè như:

“Một người làm việc bằng hai

Để cho cán bộ mua đài, tậu xe

Một người làm việc bằng ba

Để cho cán bộ xây nhà, xây sân.”

Trong sản xuất thì:

- Ngụy quyền thu mua gà, vịt thì họ nuôi ngỗng

- Ngụy quyền thu mua gà, vịt, ngỗng thì họ nuôi gà tây và thỏ

- Ngụy quyền thu mua mía thì họ tước lá mía bán ngoài để lợp nhà, làm chất đốt

- Ngụy quyền thu mua cây ăn trái thì họ đổ nước muối cho cây chết bán làm gỗ, làm củi; rồi họ trồng cây ngâu, cây sói bán hoa để ướp trà

- Ngụy quyền cấm thịt heo, bò, trâu thì họ lấy nhựa trái đu đủ xanh bôi khắp người con heo làm cho nổi mụn đỏ rồi báo thú y đem chôn. Nhưng thú y đi thì họ tắm cho heo xà-bông và nước ấm, heo lại như bình thường đem mổ bán lậu. Trâu, bò thì đẩy xuống ao cho bị cọc đâm rồi báo huyện xin mổ v.v…

Tóm lại là ngụy quyền Hồ chí Minh thi thố võ bóc lột nào, nông dân có ngay cách đối phó hữu hiệu. Cái lối phá hoại sản xuất, công cụ sản xuất và lãn công, lãng phí vô tội vạ đó đã chứng minh hình ảnh Bắc Việt Nam do ngụy quyền Hồ chí Minh cai trị là gì? Và, rõ ràng là suy nghĩ và hành động chỉ theo hai cách:

+ Chủ quan của tập đoàn ngụy quyền Hồ chí Minh

+ Chủ quan của nhân dân nói chung

Còn cái gọi là khách quan như Lữ Phương mong muốn chỉ xảy ra với bọn định “làm đơn xin việc” như lối nói của Lý Tuấn. Và, xa hơn nữa là của vài anh làm báo, nhà văn nước ngoài “thối mồm” xía vào việc người một cách rất “vô trách nhiệm và cực kỳ ngu xuẩn!!!”

Ngụy quyền Hồ chí Minh, theo ngôn ngữ kinh tế của chủ nghĩa thực dân đỏ (tức cộng sản) thường rêu rao cái gọi là “sở hữu tập thể” và “sở hữu toàn dân” mà nhiều anh mọt sách cũng bày đặt phân tích, so sánh này nọ, hoàn toàn viễn vông, vô tích sự, y hệt “so sánh rồng Nhật Bản, rồng Việt Nam và rồng Ba Tàu” con nào được vẽ giống “rồng” hơn. Khổ quá, “rồng” chỉ được kể qua truyền thuyết mà thôi, làm gì có thật mà bàn với so sánh. Còn cái sự thật vừa giản dị, vừa rõ rành rành là chỉ có ở các nước có dân chủ đa đảng thì sở hữu toàn dân (hay quốc doanh) mới là thực của các khái niệm đó mà cũng chỉ ở mức tương đối mà thôi. Còn ở một nước nô lệ do tập đoàn mafia đỏ Hồ chí Minh cai trị thì làm gì có cái gọi là sở hữu toàn dân (hay quốc doanh) mà bàn. Bản thân mỗi con người cụ thể – từ già đến trẻ – cũng thuộc quyền sở hữu của Hồ (đại diện của thực dân đỏ). Giở sách báo ra chỗ nào mà chẳng thấy: “ruộng cụ Hồ”; “gạo cụ Hồ”; “muối cụ Hồ”; “dân cụ Hồ”; “thiếu nhi cụ Hồ”; “lính cụ Hồ”; “áo cụ Hồ” v.v… Thử hỏi cho đến tận bây giờ có ai được biết ngụy quyền Hà-nội làm ăn ra sao, lỗ lãi thế nào, chia chác thế nào. Cứ cho cái số liệu tập đoàn mafia đỏ của chúng là hai triệu, thì “đảng phí của chúng có đủ chi cho các bộ máy đảng của chúng thôi không!!!” Tiền đâu ra mà xây trụ sở, dinh thự, viện bảo tàng, tượng đài, lăng tẩm v.v… Ngay cái công cụ của chúng được đội tên là “quốc hội” có được biết đến những chi, thu đó không? Kể từ ngày Hồ đặt ách cai trị ở Bắc Việt Nam (tháng 7-1954) cho đến năm 2001 này!!!

Để cho bộ máy cai trị hữu hiệu, trong mục tiêu hàng đầu của Hồ, là chống sự nổi dậy của nô lệ dưới mỹ tự “bảo đảm an toàn chính trị, trật tự an ninh xã hội”, Hồ ban cho chân tay nhiều quyền hạn mà chắc chắn ngay các triều đại phong kiến lúc suy thoái trong lịch sử Việt Nam cũng không đến nỗi như vậy. Đứa nào nắm quyền quản lý ngành nào là chúa của ngành đó. Toàn dân bị bóc lột tàn khốc. Cấp lớn ăn lớn, cấp nhỏ ăn nhỏ, vì như Hồ tiểu di cho bọn chúng rằng: “nhân dân là vô tận”, điều mà Hồ học được của bố Mác mẹ Lê của hắn là: “Người là vốn quý nhất”.

Chỉ một tên công an đường phố, tuổi độ 20, đeo lon hạ sỹ, cũng đủ quyền hạn cho người dân nô lệ đi tù không thời hạn (tức đi cải tạo), chẳng cần xét xử gì, hệt như mấy tên chánh án nhí con trong tòa án cải cách ruộng đất vậy! Chúng muốn vào nhà “hỏi thăm sức khỏe” bất kể giờ giấc, tha hồ nhòm ngó, hạch hỏi. Lũ chó săn lông vàng này là tai họa bất ngờ của mọi người, nhưng là chỗ dựa tin cậy của ngụy quyền cộng sản Hồ chí Minh, vì đấy là “cơ quan chuyên chính” của chúng.

Xin đưa thêm vài thí dụ cụ thể để bạn đọc thấy cái lũ mà Lữ Phương muốn nhắn nhủ cho bạn đọc, đặc biệt tuổi trẻ, rằng: “Tính chất trong sạch lý tưởng, biết hy sinh vì nghĩa lớn của những người cộng sản theo con đường của ông (tức Hồ) hoàn toàn không phải chỉ là chuyện tuyên truyền” là như thế nào.

Xin tạm kể đến những tên to đầu nhất trong đám lâu la của Hồ:

1) Phạm văn Đồng, kẻ đã vâng lệnh Hồ, nhân danh thủ tướng ngụy quyền Hà-nội, năm 1958 đã ký giấy ủng hộ Trung cộng cướp lãnh hải của ta. Mặc dù có vợ là con một tư sản Hà-nội, rất đẹp, nhưng khi ở Việt-Bắc, Đồng đã cưỡng ép một cháu thiếu nữ miền Nam, trong đoàn đại biểu nhân dân miền Nam ra chào mừng Chính phủ Liên hiệp đa đảng, vào cuối năm 1946. Vì thế mà vợ Đồng lên cơn điên. Vào những ngày Mỹ ném bom Hà-nội, vụ trưởng vụ nghệ thuật là nhà thơ Lưu trọng Lư, bị du kích Quảng-bá bắt được đang ”theo con đường của Hồ”, nghĩa là đụ bậy một diễn viên nổi tiếng của đoàn tuồng khu 5. Du kích trói cả đôi trong bộ quần áo “nguyên thủy” và bắt đại diện bộ văn hóa đến bảo lãnh mới cho về. Nghe chuyện này Đồng cho gọi Lưu trọng Lư đến nhà riêng hỏi kinh nghiệm. Và, sau đó cô diễn viên trẻ, đẹp, bầu bĩnh như “Duơng quý Phi” thành bồ nhí của Đồng.

2) Lê Duẩn, về công khai đã hai, ba vợ chính thức. Nhưng các nữ thư ký, các cháu ở miền Nam ra tham quan “miền Bắc xã hội chủ nghĩa” v.v… đều được Lê Duẩn “theo con đường của Hồ” tặng các cháu trái cấm. Sau khi đặt ách đô hộ của thực dân đỏ ở miển Nam Việt Nam, Duẩn chơi ngông không chịu ở vi-la cũ của “Mỹ-Ngụy”, nên lệnh cho nô lệ lục tỉnh đi phu đào đất, lấp sông ở An-phú (Thủ-đức) xây một biệt thự mới toanh. Trời có mắt, nên lầu đài vừa xây xong, Duẩn chưa kịp ở lấy một ngày đã có lệnh Diêm Vương tống hắn xuống hỏa ngục chờ ngày xét xử. Lầu đài đành đóng cửa bỏ đấy, cho đến ngày gọi là “mở cửa, đổi mới” thì hãng dầu lửa BP thuê làm văn phòng.

3) Trường Chinh tên thật là Đặng xuân Khu. Hắn còn được Hồ đặt cho bí danh là Thận, nghĩa là “thận trọng” như lời Hồ giải thích. Mấy thầy bàn vì thiếu thông tin và cũng do máu nâng bi (kiểu Lữ Phương) thì nói là Hồ tin yêu Trường Chinh vì tính Trường Chinh rất “thận trọng” nên mới đặt tên là “Thận”, hay còn gọi là “Năm”. Sự thật là Hồ dằn mặt Trường Chinh về cái thù ở biên giới Cao-bằng như đã kể ở trên, nên đặt cho Trường Chinh là “Thận”, ngụ ý: “Mày thận trọng đến đâu thì cũng phải dưới đít tao. Hoặc giả, mày cần thận trọng, nếu có chút hỗn láo, tao sẽ cho mày đi Hành-thiện ngay như Gia-Long cho ông tổ Đặng trần Thường của mày vậy!”

Sau Hồ thì phải nói đến Trường Chinh là tên hám danh nhất trong thủ hạ của Hồ. nhà ăn cơm, hắn bắt vợ mặc áo dài đứng hầu cơm. Hắn đi đâu cũng tiền hô hậu ủng. Khổ cho những ai đi xem hát hò gì đó ở Nhà hát lớn mà hôm đó Trường Chinh cao hứng đi. Hắn thường đến vào lúc bắt đầu trình diễn. Toàn khu vực nhà hát, cả cổng trước, cổng sau, lầu thượng, tầng hầm, lũ chó săn mặc thường phục hau háu nhe nanh. Kể từ đó là nội bất xuất, ngoại bất nhập. Tầng dưới mỗi hàng ghế đều có hai chó săn ngồi hai đầu. Các tầng trên chỗ nào cũng có chó săn chiếu tướng khán giả. Trường Chinh thường đi cùng vợ và hai đứa cháu nội (con của Đặng xuân Kỳ). Mặt hắn đầy vẻ tự mãn, coi thiên hạ như rác. Những nô lệ ở Hà-nội thường nói đùa rằng: “Chỉ có Lê Duẩn muốn giết Trường Chinh mà thôi, chứ Mỹ có khi còn bỏ tiền thuê người bảo vệ cho Hồ và lũ bộ hạ của hắn. Vì bom đạn Mỹ, thuốc trụi lá cây, và ngay cả bom hạt nhân cũng chẳng thể nào tàn phá miền Bắc Việt Nam như Hồ và ngụy quyền cộng sản đã làm và đang làm. Bọn Hồ mới “đủ tài” kéo xã hội Bắc Việt Nam khi ấy – cuối thế kỷ 20 – trong vòng vài năm, trở về thời đại trước cả các vua Hùng, tốc độ ngang ánh sáng!!!”

Trường Chinh là kẻ luôn dùng quyền lực bao che thuộc hạ. Xin đưa vài thí dụ: Vũ Quang, xuất thân là đệ tử của Trường Chinh, từng giữ ghế bí thư tỉnh ủy mafia ở Bắc-ninh, được lôi về thay Nguyễn Lam làm bí thư thứ nhất đoàn thanh niên lao động Hồ chí Minh. Thời A-gien-đê cầm quyền ở Chilie (Nam Mỹ), Quang cầm đầu một đoàn thanh niên qua thăm Chilie. Trong đoàn có ca sỹ Diệu Thúy – đã có vị hôn thê – chờ đi “công cán” về sẽ cưới chồng. Ấy thế mà Vũ Quang, khi ghé qua Cuba, đã dám đè Diệu Thúy ở trong khách sạn để “hiếp đại cái đã” rồi tính sau. Ai ngờ an ninh Cuba quay được cảnh đó, chuyển về cho ngụy quyền Hà-nội. Thanh niên Hà-nội bất mãn việc Vũ Quang hiếp vị hôn thê của người khác. Ấy thế mà Trường Chinh ra lệnh các nơi họp để thanh minh cho Vũ Quang, nói đó là phản động vu cáo để bôi nhọ chế độ, hoàn toàn không có chuyện Vũ Quang “hiếp” ca sỹ Diệu Thúy. Không may là cái bụng Diệu Thúy có “định hướng” phát triển không bình thường, nên cũng lại Trường Chinh ra lệnh cho Vũ Quang cưới đại ca sỹ Diệu Thúy đi, mặc dù hai con trai của Vũ Quang – tuổi xấp xỉ Diệu Thúy – hết sức phản đối.

Trường Chinh rất ghét Võ nguyên Giáp vì thấy Giáp cúc cung với Hồ, lại thêm trong vụ “cải cách ruộng đất”, Trường Chinh mắc bẫy của Hồ mà rớt chức tổng bí thư mafia đỏ, Giáp được Hồ chỉ định thay mặt “trung ương” xin lỗi “dân”. Mọi người không hiểu thâm ý của Hồ về việc chỉ định ấy đối với Giáp. Cái thâm ý đó của Hồ là:

1. Giáp đang nổi danh như cồn sau Điện-biên-phủ. Cho Giáp ra để đo mức uy tín của Giáp mà “cảnh giác”, cũng như làm cho loại Nguyễn chí Thanh, Trường Chinh càng thêm đố kỵ với Giáp. Vì thế, Hồ đâu cần ra lệnh, chỉ “vờ quên” tý chút là Nguyễn chí Thanh đã cho bắt hết các đại tá thân cận của Giáp. Mượn tay Thanh đến thế là vừa đủ, Hồ lại đỡ đòn cho Giáp sau khi Giáp bị “cạo nhẵn râu ria”, và Hồ phái Thanh đi làm công tác “nông nghiệp” để Giáp lấy lại hồn vía.

2. Ngoài ra, đây cũng là cái mất dạy của Hồ, nghĩa là công khai trước “dân”, việc đếch gì hắn phải xin lỗi lũ nô lệ ấy!!! Bởi đây là “lỗi của Trường Chinh” và đồng bọn, đời nào Hồ lại “ngu” mà nhận cái “tội ném đá giấu tay” ấy. Nghĩa là Hồ không bao giờ sai!!! Vì thế nhân sự mafia đỏ chóp bu có nhiều hoán chuyển, như Duẩn ngồi trên đầu Trường Chinh; Lê đức Thọ trên đầu Lê văn Lương v.v… Còn Hồ, hắn vẫn ở ngôi vị “number one” mãi mãi đến tận bây giờ!!!

Đấy chính là chất ma giáo của tên Việt gian, lưu manh chính trị Hồ chí Minh vậy!

Lại nói về việc của Giáp. Chẳng là Giáp luôn ngầm ví mình như Napoléon – nghĩa là cũng lùn, cũng bay bướm và cũng nổi danh nhờ chiến công thắng trận Điện-biên (chưa bị bật mí) – chỉ thiếu cái mũ “hai sừng” của Napoléon mà thôi. Thế là giáo sư thạc sỹ sử học Phạm huy Thông, quá trình dạy môn sử cho vợ Võ nguyên Giáp, đã tặng Giáp “một cặp sừng”. Giáp đau lắm nên đẩy Thông ra khỏi cái ghế bộ trưởng bộ đại học và trung học chuyên nghiệp (giáo sư Tạ quang Bửu thay vào đó). Đáng ra Thông còn có thể ê chề hơn nữa, nhưng Trường Chinh xòe cánh bảo vệ cho Phạm huy Thông, cho về ngồi cái ghế viện trưởng Viện khảo cổ. Khoảng sau 1980, tin chính thống nói rằng Phạm huy Thông bị “kẻ cắp” vào nhà ăn trộm tiền, đã đâm Thông nhiều nhát tàn nhẫn, kết liễu đời tên thạc sỹ bồi bút, nâng bi, tên “trí thức không bằng cục cứt”. Nhưng, bí mật hành lang thì nói rằng đàn em Giáp, trong đơn vị đặc công ở miền Nam ra, đã trả thù hộ Giáp, nên mới đâm rất điệu nghệ và rất tàn bạo cái anh già dê Phạm huy Thông đó mà sức nặng cả cứt mới hơn 40 kí-lô; nghĩa là tát ba cái cũng đủ chết, cần gì đâm như tập đâm lê vào người rơm vậy” (Nghe có lý!)

Trường Chinh ghét giáo sư Tạ quang Bửu (chắc vì đã ngồi vào cái ghế đáng ra là của Phạm huy Thông, đàn em của hắn), nên một lần họp quốc hội, hắn để cho Vũ Quang phê bình giáo sư Tạ quang Bửu là vi phạm “tính giai cấp” và đã cách chức bộ trưởng của giáo sư Tạ quang Bửu. Còn Vũ Quang, sau vụ cướp vợ, được lôi về làm chánh văn phòng của trung ương mafia đỏ, thay chân của Trần xuân Bách, rồi vào ủy viên chính thức của trung ương mafia đỏ, phụ trách trưởng ban đối ngoại, thay Nguyễn thành Lê. Cô ca sỹ vừa tốt nghiệp đại học thanh nhạc là Diệu Thúy, ngây thơ, dễ thương bao nhiêu thì khi thành vợ Vũ Quang, nhiễm lối sống mafia, thôi hát và trở thành một tay buôn hạt xoàn và US đô-la, sau ngày 30-4-1975! Đúng là các cụ đã nói: “Gần mực thì đen”. Tài thật!

Hà thị Quế, một đệ tử thân cận, đã từng là giao liên của Trường Chinh nên được cho làm ủy viên trung ương chính thức mafia đỏ, giữ ghế phó ban tổ chức trung ương, kiêm phó ban kiểm tra trung ương phụ trách thường trực (thời kỳ Nguyễn lương Bằng làm trưởng ban). Mụ này trông như con mẹ phù thủy nhưng lại ham đàn ông cao to, đẹp trai và thời kỳ mụ chỉ đạo ở tỉnh ủy mafia đỏ Thái-bình, mụ đã bẫy được anh chàng trung đoàn trưởng của đại đoàn Đồng Bằng, là Nguyễn trọng Tỉnh, cao to và đẹp trai. Chỉ có nhược điểm là phát triển “nhầm đầu”, óc bã đậu rất sợ học chữ. Sau 1954, có sự ủng hộ của Trường Chinh, Hà thị Quế lôi anh chồng đẹp trai thất học về cho làm Tổng cục trưởng Tổng cục thủy sản. Học theo con đường của họ Hồ, anh chàng Nguyễn trọng Tỉnh này chơi hầu hết nữ cán bộ, công nhân viên trong tổng cục. Các cô bị dính bầu tùm lum. Thời kỳ đó nạo thai còn là điều cấm kỵ. Nhưng có ô dù là “anh Thận”, lại bản thân cũng có quyền lớn nên Hà thị Quế bắt các cô bé nhẹ dạ phải đi nạo thai. Ai biết ngậm miệng thì cho đi nước ngoài. Ai vạ miệng thì bị đuổi việc, có khi còn phải đi cải tạo vì tội “nói xấu lãnh đạo”! Chẳng biết học từ ai mà Hà thị Quế đem những thai nhi bị nạo đó ngâm trong mật ong làm thuốc “trường sinh bất lão”, nghe nói là còn công dụng “cường dương” và “chữa hen suyễn” và nhiều chứng bệnh khác. Và, từ đó được “ban bảo vệ sức khỏe” của trung ương mafia đỏ, do thượng tướng ngụy quân, kiêm bí thư khu ủy mafia đỏ khu tự trị Việt-Bắc, kiêm phó chủ tịch quốc hội là Chu văn Tấn phụ trách, cho vào danh sách “thuốc bổ đặc biệt”. Bắc Việt Nam khi ấy, Chu văn Tấn giữ độc quyền săn cọp nấu cao, bắt gấu lấy mật cung cấp cho Hồ và chân tay kế cận, nay thêm độc quyền “mật ong Hà-giang” (vì ong ở đây toàn hút hoa cây thuốc phiện) để ngâm thai nhi. Chính là “ma dược” này khiến đã Hồ và đồng bọn xanh xao, nhếch nhác từ rừng rú, về đến Hà-nội một vài năm mà thằng nào thằng nay béo múp đầu múp đuôi, da mặt đỏ au như nhuộm phẩm vậy. Chính vì thế, Hồ đã cho phép tách bộ y tế thành hai, một vẫn mang tên bộ y tế do bác sỹ Nguyễn văn Hưởng làm bộ trưởng (sau khi Phạm ngọc Thạch bị chết); nửa còn lại nâng lên thành ủy ban bảo vệ bà mẹ và trẻ em do đích thân Phạm văn Đồng, thủ tướng kiêm chủ nhiệm ủy ban và mụ Đinh thị Cẩn (vừa là bồ cũ vừa là đầu bếp cũ của Hồ), dự khuyết trung ương mafia đỏ, thứ trưởng thứ nhất kiêm bí thư đảng đoàn mafia đỏ bộ y tế, giữ chức phó chủ nhiệm, thường trực của ủy ban. Khổ quá! Nó có bảo vệ bà mẹ và trẻ em cái gì đâu. Nó chỉ làm có hai nhiệm vụ: một là: nạo thai công khai và khuyến khích toàn dân ăn thai nhi và nhau đẻ (nâng thành quốc sách để giải quyết nạn khan hiếm thực phẩm); và hai là: thành cơ quan tiếp nhận đồ viện trợ của UNICEF của Liên-hiệp-quốc để chia nhau và chuyển cho ngụy quân đi xâm lược miền Nam Việt Nam, Lào và Cam-bốt.

(Xin mời đọc tiếp bài 6)